BẢO HỘ SỞ HỮU TRÍ TUỆ THỜI ĐẠI 4.0

BẢO HỘ SỞ HỮU TRÍ TUỆ THỜI ĐẠI 4.0
BẢO HỘ SỞ HỮU TRÍ TUỆ THỜI ĐẠI 4.0

Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0 với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ. Bên cạnh thị trường truyền thống, hoạt động kinh doanh diễn ra ngày càng nhiều trong môi trường thương mại điện tử. Lợi ích từ sự chuyển đổi này là rất lớn, có sức hấp dẫn với doanh nghiệp, đòi hỏi cao hơn trong vấn đề thực thi, bảo hộ sở hữu trí tuệ.

1.         Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến vấn đề thực thi, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu, với tốc độ nhanh hơn những gì đã xảy ra từ trước đến nay và được dự báo làm thay đổi toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị trên toàn thế giới. Trong bối cảnh đó, lĩnh vực sở hữu trí tuệ cũng không ngoại lệ, cần được đặt trọng tâm ưu tiên nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. 

Trong thời đại CMCN 4.0, sở hữu trí tuệ trở thành một trong những công cụ được sử dụng để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế. CMCN 4.0 với internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big data), trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ phần mềm, các mô hình kinh doanh mới… đặt ra những vấn đề cấp bách về chuyên môn.

Đó là các vấn đề liên quan tới xác lập quyền trong xử lý đơn liên ngành hay ứng dụng AI vào xử lý đơn, sử dụng Big data cho hoạt động của cơ quan sở hữu trí tuệ và bảo hộ AI cùng những kết quả tạo ra từ AI… Cuộc CMCN 4.0 tác động mạnh mẽ đến sự phát triển, thay đổi của hệ thống sở hữu trí tuệ. 

Theo thống kê, năm 2016 có hơn 5.000 đơn sáng chế liên quan đến IoT đã được nộp tại Cơ quan sáng chế châu Âu và tăng trưởng 54% chỉ trong 03 năm (từ 2014 – 2016). Điều này khẳng định, các đơn sáng chế thuộc các lĩnh vực công nghệ thông minh sẽ gia tăng nhanh chóng cùng với sự ra đời của các vật liệu mới và các sáng chế được tạo ra bằng trí tuệ nhân tạo. Đồng thời cũng đặt ra thách thức không nhỏ trong việc bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp, ví dụ như bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cho các sản phẩm in bằng công nghệ 3D. 

Trên thực tế, việc đăng ký bằng sáng chế trong thế giới IoT rất có giá trị. Tuy nhiên, việc bảo hộ tài sản trí tuệ cũng khó khăn hơn và dễ dẫn tới nhiều vụ kiện xâm hại bằng sáng chế. Bởi thiết bị IoT của các nhà sản xuất khác nhau buộc phải có khả năng tương thích với nhau. Mà mỗi một hệ thống IoT, dù nhỏ cũng có thể phải tích hợp hàng nghìn sáng chế. Điều này dẫn tới việc rất nhiều bằng sáng chế bị chồng chéo nhau.

Bên cạnh đó, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường số sẽ trở nên khó khăn hơn, vì vậy, các chính sách cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng để vừa không ngăn cản sự phát triển khoa học và công nghệ, vừa đảm bảo được an ninh, bảo mật và đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ thỏa đáng. Dưới góc độ doanh nghiệp, cần bảo vệ và sử dụng có chiến lược quyền sở hữu trí tuệ trong bối cảnh CMCN 4.0 xây dựng chiến lược toàn cầu hóa về sở hữu trí tuệ và đạt được mức tăng trưởng mạnh nhờ sở hữu trí tuệ.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho hệ thống sở hữu trí tuệ là phải được xây dựng và vận hành thực sự hiệu quả, đóng vai trò kiến tạo cho đổi mới sáng tạo, thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Vấn đề sở hữu trí tuệ đã vượt ra khỏi biên giới một quốc gia và bản thân mỗi quốc gia riêng rẽ không thể xử lý được.

Ở Việt Nam, Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Nghị quyết số 52/NQ-TW) khẳng định, cuộc CMCN 4.0 mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội đất nước. CMCN 4.0 yêu cầu phải đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp; cần có cách tiếp cận mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo.

2.         Tình hình thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam thời gian qua

a.         Pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ

Ở Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ là văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến loại tài sản đặc biệt – tài sản trí tuệ. Qua thực tiễn thi hành, Luật Sở hữu trí tuệ đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức, cá nhân xác lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho hoạt động sản xuất – kinh doanh, góp phần khuyến khích hoạt động sáng tạo, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 

Thời gian qua, nhận thức của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp của Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó, Luật Sở hữu trí tuệ còn là nền tảng đưa hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ của Việt Nam đạt chuẩn mực theo Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Không chỉ thế, nhằm thúc đẩy hoạt động sở hữu trí tuệ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1068/QĐ-TTg ngày 22/8/2019 phê duyệt Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030; Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) ngày 12/11/2018. 

Ngày 14/6/2019, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ để thi hành các nghĩa vụ theo Hiệp định CPTPP. Để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ, hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.

b.         Pháp luật Việt Nam và các vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ thời đại 4.0 trên thực tiễn

Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ cho thấy còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập nhất định cần được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính cũng như để bảo đảm thi hành các cam kết về sở hữu trí tuệ trong thời đại CMCN 4.0. Trên thực tế, tình hình quản lý, thực thi và tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn yếu kém; tình trạng vi phạm các quyền sở hữu trí tuệ rất tràn lan, phổ biến, phức tạp và khó kiểm soát, chủ yếu tập trung nhiều vào các nội dung quyền tác giả trong sách báo, phim ảnh, bản quyền phần mềm máy tính… 

Về chế tài xử phạt, pháp luật về sở hữu trí tuệ chưa đủ mạnh để có thể răn đe. Thực tế, có những người lợi dụng kẽ hở pháp luật, mạo danh các thương hiệu nổi tiếng để làm hàng giả, hàng nhái. Theo thống kê của Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ, hơn 98% vi phạm về sở hữu trí tuệ từ năm 2013 đến năm 2015 được các cơ quan hành chính xử lý. Rất ít vụ việc được xử lý hình sự.

Trong lĩnh vực hoạt đông thương mại điện tử tại Việt Nam, theo số liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ, tốc độ tăng trưởng hàng năm lên tới 22%. Sự phát triển thương mại điện tử cũng đặt ra rất nhiều thách thức khi các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật với nhà cung cấp dịch vụ trung gian, xử lý vi phạm trên mạng xã hội cũng chưa rõ ràng, ngay cả khi xác định có trường hợp vi phạm thì cũng rất khó thu thập chứng cứ bảo đảm căn cứ pháp lý để xử lý vi phạm.

Vì thế, mà các vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong đó có sở hữu trí tuệ đối với phần mềm máy tính hiện nay vẫn đang là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau và cần có những nghiên cứu cụ thể hơn về lợi ích cũng như thách thức trong việc đề ra chính sách cũng như tiêu chí bảo hộ cụ thể đối với phần mềm. 

Hơn nữa, một vấn đề quan trọng khác là chính sách, pháp luật để đối xử với những “sáng chế thiết yếu đặc biệt” liên quan đến các tiêu chuẩn kỹ thuật mới phát sinh. Mặc dù có ý kiến cho rằng, khoản 3 Điều 7 Luật Sở hữu trí tuệ có thể áp dụng trong trường hợp này, tuy nhiên, trong thực tiễn, việc áp dụng quy định “buộc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp” chưa được thực hiện tại Việt Nam, đặc biệt là đối với sáng chế. 

Cũng liên quan đến trí tuệ nhân tạo, nếu như một sản phẩm mới được tạo ra không phải do nghiên cứu của con người thì câu hỏi đặt ra là việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ được thực hiện như thế nào? Cụ thể là đối với việc xác định tác giả, xác định quyền nhân thân, thực hiện quy định về quyền tài sản của tác giả sáng chế… Ngoài ra, trong trường hợp trí tuệ nhân tạo được tạo ra bởi một công ty nhưng việc sử dụng trí tuệ nhân tạo đó để tạo ra sản phẩm có khả năng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ lại được thực hiện bởi một công ty khác thì việc xác định chủ sở hữu của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ cũng chưa rõ ràng. 

Hay một vấn đề liên quan đến dữ liệu khác cũng cần được xem xét là sự phát triển của công nghệ về hệ thống 3D. Theo đó, việc dùng các máy in 3D tạo ra các sản phẩm sẽ không còn phụ thuộc vào thiết bị chế tạo hay bản thân sản phẩm, mà chỉ cần các dữ liệu số hóa 3D của sản phẩm đó. Cùng với công nghệ được tiêu chuẩn hóa, chỉ cần có dữ liệu này là bất kỳ máy in 3D nào cũng có thể in ra/tạo ra sản phẩm và trong trường hợp sản phẩm đó được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thì phạm vi quyền của chủ sở hữu sản phẩm đó có mở rộng đối với dữ liệu số hóa 3D của sản phẩm đó hay không, và việc xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với các dữ liệu này trên internet sẽ được thực hiện như thế nào.

Hiện nay, chế tài của Luật Sở hữu trí tuệ mới dừng lại ở việc xử lý hành chính, mà thiếu hình sự. Trong khi đó, xử lý hành chính thì vẫn còn rườm rà. Để nâng cao hiệu quả thực thi, bản thân doanh nghiệp phải là đối tượng chủ động, vì đây là quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hãy tự tạo ra một rào chắn bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp mình, khi đó, doanh nghiệp có kêu cứu thì các cơ quan có liên quan mới có cơ sở để bảo vệ và hỗ trợ kịp thời.

Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, sở hữu trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, giúp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ. Tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ chưa có chiều hướng thuyên giảm. Nhiều hàng hóa trong nước có uy tín bị làm giả, làm nhái. Điều này gây thiệt hại cho người tiêu dùng, xâm phạm quyền của các chủ sở hữu, làm cho doanh nghiệp sụt giảm về doanh số và lợi nhuận.

3.         Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ 

Một trong những chủ trương, chính sách quan trọng để chủ động tham gia CMCN 4.0 được Bộ Chính trị đưa ra tại Nghị quyết số 52/NQ-TW là hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0 và quá trình chuyển đổi số quốc gia, trong đó có hoàn thiện pháp luật, trước hết là pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới dựa trên nền tảng công nghệ số, internet và không gian mạng; đồng thời ngăn chặn kịp thời các tác động tiêu cực cả về kinh tế và xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng. 

Đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ, Nghị quyết số 52/NQ-TW yêu cầu hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, bảo hộ và khai thác hiệu quả, hợp lý các tài sản trí tuệ do Việt Nam tạo ra; khuyến khích thương mại hóa và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là đối với các sáng chế tại Việt Nam trên cơ sở tuân thủ pháp luật trong nước và bảo đảm lợi ích an ninh quốc gia.

Theo đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho hệ thống sở hữu trí tuệ là phải được xây dựng và vận hành thực sự hiệu quả, kiến tạo cho đổi mới sáng tạo, thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Để làm được như vậy, tác giả đưa ra một số khuyến nghị cụ thể như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để giải quyết những vấn đề phát sinh từ cuộc CMCN 4.0. 

Cụ thể: Mở rộng phạm vi đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và đổi mới cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ cho các đối tượng sở hữu trí tuệ mới được tạo ra từ CMCN 4.0 (như bảo hộ sáng chế trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…); nâng cấp và hoàn thiện các quy định về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường internet (quy định trách nhiệm nhà cung cấp dịch vụ internet; bổ sung các quy định về chứng cứ xác định hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, yêu cầu bồi thường thiệt hại khi thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên môi trường internet…); quy định các chế tài đủ mạnh đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Thứ hai, nâng cao năng lực chuyên môn về sở hữu trí tuệ và năng lực thực thi công vụ cho các cơ quan, lực lượng chức năng, đặc biệt là năng lực ứng dụng công nghệ mới vào quản lý, xử lý đơn đăng ký các đối tượng mới; áp dụng chính các công nghệ mới này trong việc vận hành cơ quan sở hữu trí tuệ, đặc biệt là các công nghệ blockchain, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo. 

Việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thực thi quyền sở hữu trí tuệ là yêu cầu bức thiết, do đó, cần nghiên cứu, xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về sở hữu trí tuệ cho các cơ quan, lực lượng thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Hỗ trợ, đáp ứng yêu cầu tăng cường năng lực cho các cơ quan thực thi về con người và cơ sở vật chất thông qua các chương trình xây dựng, huấn luyện cho các đầu mối về thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại các cơ quan thực thi ở trung ương và địa phương.

Thứ ba, bảo đảm cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả, hợp lý và khả thi thông qua việc đẩy mạnh biện pháp dân sự, thu hẹp phạm vi áp dụng biện pháp hành chính, hoàn thiện quy định về thực thi quyền trong môi trường kỹ thuật số, xử lý tên miền vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan để đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong việc cấp, thu hồi và sử dụng tên miền; tăng cường xử lý những hành vi mới chỉ là tiền đề xâm phạm quyền; nâng cao hiệu quả thực thi quyền tác giả, đặc biệt là đối với phần mềm máy tính và dữ liệu đặc biệt là trên môi trường internet…

Thứ tư, đối với doanh nghiệp, cần có hướng dẫn về quản lý và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ.

Thứ năm, thúc đẩy hợp tác về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở quy mô khu vực và toàn cầu, tiếp tục tận dụng một cách có hiệu quả kinh nghiệm và sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế trong công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng như trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hiện tại và tương lai cho các cơ quan, lực lượng thực thi. Bởi vì, nhiều vấn đề sở hữu trí tuệ đã vượt ra khỏi biên giới một quốc gia và bản thân mỗi quốc gia riêng rẽ không thể xử lý được.

Căn cứ pháp lý: 

  • Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam;
  • Nghị quyết số 52/NQ-TW;
  • Hiệp định TRIPS;
  • Hiệp định CPTPP;
  • Quyết định số 1068/QĐ-TTg.

𝐋𝐈𝐍𝐂𝐎𝐍 𝐋𝐀𝐖 𝐅𝐈𝐑𝐌 – 𝐇𝐨̛̣𝐩 𝐭𝐚́𝐜 𝐯𝐮̛̃𝐧𝐠 𝐛𝐞̂̀𝐧

Bình Luận

Bình Luận

Chưa có bình luận nào.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *