MỘT SỐ LƯU Ý KHI SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI (KỲ 1)

MỘT SỐ LƯU Ý KHI SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI (KỲ 1)
Lưu ý khi soạn thảo Hợp đồng thương mại

I. Vấn đề liên quan đến luật điều chỉnh 

Hợp đồng thương mại (sau đây gọi tắt là “hợp đồng”’) được ký kết giữa các thương nhân và nhằm mục đích sinh lời, được điều chỉnh bởi Luật Thương mại.

Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005, thương nhân được hiểu bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Như vậy, thương nhận có thể là tổ chức kinh tế (doanh nghiệp) hoặc cá nhân kinh doanh tiến hành hoạt động thương mại với các yêu cầu sau:

– Có mục đích lợi nhuận;

– Tham gia quan hệ thương mại một cách độc lập và nhân danh chính mình;

– Tiến hành hoạt động thương mại một cách thường xuyên, như một nghề nghiệp;

– Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tư cách pháp lý thông qua việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hoặc đăng ký doanh nghiệp).

Ví dụ 1: Công ty A ký hợp đồng cung ứng nguyên liệu với Công ty B chuyên sản xuất bánh kẹo. Công ty A và Công ty B đều là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp theo luật Việt Nam. Các vấn đề pháp lý liên quan đến Hợp đồng mua bán hàng hóa/cung ứng nguyên liệu giữa hai Công ty sẽ do Luật Thương mại điều chỉnh. 

Nếu hợp đồng được ký kết giữa hai bên là thương nhân, hoặc một bên là thương nhân, một bên là cá nhân nhưng không phải vì mục đích sinh lời mà hướng đế mục đích tiêu dùng thì Luật Thương mại chỉ điều chỉnh hợp đồng nếu hai bên trong giao kết hợp đồng lựa chọn luật áp dụng là Luật thương mại. Nói cách khác, các bên thực hiện giao dịch với thương nhân không nhằm mục đích sinh lời được quyền chọn Bộ luật dân sự hoặc Luật Thương mại để điều chỉnh hợp đồng.

Việc chọn luật áp dụng sẽ là căn cứ quan trọng để xác định vấn đề bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm cũng như cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi xảy ra tranh chấp giữa các bên. 

Ví dụ 2: Công ty thiết bị điện tử A ký hợp đồng cung ứng 10 máy tính bàn chuyên dùng trong văn phòng với Công ty B. Công ty B sử dụng 10 máy tính bàn cho mục đích tiêu dùng, mục đích làm việc thuần túy. Như vậy trong trường hợp này, hợp đồng mang tính chất thương mại đối với bên A và mang tính chất tiêu dùng đối với bên B. Do vậy, Công ty B có quyền lựa chọn Bộ luật Dân sự hoặc Luật Thương mại để điều chỉnh Hợp đồng giữa các bên. 

Như vậy, về nguyên tắc, khi một bên giao kết hợp đồng nhằm mục đích thu lợi nhuận thì hợp đồng đó được coi là có mục đích lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Với ví dụ 1, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể tạo ra lợi nhuận trực tiếp cho một trong hai bên Hợp đồng. Với ví dụ 2, mục đích lợi nhuận có thể đạt được bằng con đường gián tiếp như mua máy tính phục vụ hoạt động kinh doanh, tuy không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng có vai trò bổ trợ nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động kinh doanh để mang lại lợi nhuận.

II. Chủ thể và đại diện giao kết hợp đồng thương mại

Vấn đề tiếp theo cần xem xét trong giao kết hợp đồng thương mại liên quan việc cần phân biệt hai khái niệm chủ thể hợp đồng và đại diện giao kết hợp đồng. Theo đó, chủ thể hợp đồng là bên có quyền đứng tên trong hợp đồng và chịu trách nhiệm pháp lý về các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, còn đại diện giao kết hợp đồng là người thay mặt một bên ký kết hợp đồng.

2.1. Chủ thể hợp đồng thương mại

Chủ thể hợp đồng thương mại có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Điều kiện để trở thành chủ thể hợp đồng thương mại, cá nhân phải có đầy đủ năng lực hành vi theo Bộ luật dân sự. Đối với chủ thể là tổ chức, hai điều kiện để tổ chức trở thành chủ thể hợp đồng trong thương mại, đó là: 

– Tổ chức đó phải được pháp luật thừa nhận có tư cách chủ pháp lý độc lập (được thể hiện thông qua Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hoặc đăng ký doanh nghiệp).

– Việc ký kết và thực hiện hợp đồng phải phù hợp với phạm vi, lĩnh vực hoạt động đã đăng ký của tổ chức đó (đối với doanh nghiệp thì phải có ngành nghề kinh doanh phù hợp với nội dung của hợp đồng). Pháp luật doanh nghiệp quy định doanh nghiệp phải đăng ký kinh doanh và kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đăng ký. Như vậy, năng lực ký kết hợp đồng của doanh nghiệp bị giới hạn trong phạm vi ngành, nghề mà doanh nghiệp đã đăng ký với cơ quan nhà nước. Các ngành nghề doanh nghiệp được quyền kinh doanh được xác định trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp), giấy phép kinh doanh (đối với những ngành nghề pháp luật quy định phải có giấy phép kinh doanh) hoặc chứng chỉ hành nghề (đối với những ngành nghề pháp luật quy định phải có chứng chỉ hành nghề).

Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là: Trường hợp doanh nghiệp ký kết hợp đồng thương mại không phù hợp với ngành, nghề kinh doanh đã đăng ký thì Hợp đồng có đương nhiên bị vô hiệu hay không? 

Đối với các ngành nghề kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện mà không có giấy phép kinh doanh theo quy định thì hợp đồng đương nhiên vô hiệu vì trái quy định của pháp luật. Đối với các ngành nghề kinh doanh không thuộc ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì hợp đồng không đương nhiên vô hiệu, bởi lẽ khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định: “Doanh nghiệp tự do kinh doanh ngành, nghề pháp luật không cấm”. Ngoài ra, hiện nay, hành vi kinh doanh không đúng ngành nghề, mặt hàng đã đăng ký kinh doanh không còn là đối tượng bị phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 98/2020/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn sẽ bị phạt khi có thay đổi ngành nghề kinh doanh nhưng không thông báo tới Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi công ty đặt trụ sở chính trong thời hạn luật định. Ngoài ra, theo tinh thần của Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tối cao hướng dẫn một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế thì: 

“Quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (sau đây viết tắt là Pháp lệnh HĐKT) thì hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ khi một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng.

Một số điểm cần chú ý và phân biệt khi áp dụng quy định này như sau:

– Nếu khi ký kết hợp đồng kinh tế một trong các bên chưa có đăng ký kinh doanh mà trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế giữa các bên có phát sinh tranh chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, bên chưa có đăng ký kinh doanh khi ký kết hợp đồng kinh tế vẫn chưa có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc được các bên thỏa thuận trong hợp đồng, thì hợp đồng kinh tế này thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và bị coi là vô hiệu toàn bộ.

Ví dụ: Trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty A chưa có đăng ký ngành nghề xây dựng công nghiệp, những Công ty A đã ký hợp đồng kinh tế về việc nhận thầu thi công xây dựng nhà xưởng cho Công ty B. Trong quá trình thi công, giữa các bên có phát sinh tranh chấp từ việc thực hiện hợp đồng và một trong các bên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi giải quyết vụ án này, nếu có đủ căn cứ cho thấy đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp Công ty A vẫn chưa được đăng ký bổ sung ngành nghề xây dựng công nghiệp thì Toà án áp dụng điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT tuyên bố hợp đồng kinh tế này vô hiệu toàn bộ và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu theo quy định tại Điều 39 Pháp Lệnh HĐKT.

– Nếu khi ký kết hợp đồng kinh tế một trong các bên chưa có đăng ký kinh doanh, nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế giữa các bên có phát sinh tranh chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, bên chưa có đăng ký kinh doanh khi ký kết hợp đồng đã có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc được các bên thỏa thuận trong hợp đồng thì hợp đồng kinh tế này không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và do đó không bị coi là vô hiệu toàn bộ.

Ví dụ: Nếu trong ví dụ tại điểm a mục 1 này khi giải quyết vụ án, nếu có đủ căn cứ cho thấy đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp Công ty A đã được đăng ký bổ sung ngành nghề xây dựng công nghiệp thì hợp đồng kinh tế này không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và không bị coi là vô hiệu toàn bộ.”

2.2. Chủ thể ký hợp đồng thương mại

Chủ thể ký Hợp đồng thương mại, đại diện ký kết hợp đồng trong thương mại bắt buộc phải là cá nhân đáp ứng những yêu cầu của pháp luật, đó là: 

– Cá nhân có hành vi dân sự đầy đủ.

– Được quyền nhân danh một bên của hợp đồng để ký kết hợp đồng. 

Thẩm quyền đại diện ký kết hợp đồng được thiết lập bằng hai cách là đại diện đương nhiên (đại diện theo pháp luật) hoặc đại diện theo ủy quyền. Theo đó, đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định, còn người đại diện theo pháp luật có thể ủy quyền cho người khác thay mặt kí kết hợp đồng, gọi là người đại diện theo ủy quyền. Ủy quyền có thể là ủy quyền theo vụ việc hoặc ủy quyền thường xuyên. Ủy quyền theo vụ việc là hình thức ủy quyền bằng văn bản để ký kết một hoặc một số hợp đồng cụ thể. Trong hoạt động thương mại, việc ủy quyền thường xuyên không nhất thiết phải thể hiện bằng giấy ủy quyền mà có thể thông qua việc ghi nhận trong điều lệ hoặc quy chế hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù ủy quyền bằng hình thức nào thì cũng cần phải kiểm tra Giấy ủy quyền của chủ thể ký Hợp đồng hoặc kiểm tra Điều lệ Công ty xem thẩm quyền ký kết hợp đồng có hợp pháp hay không để tránh dẫn đến hậu quả pháp lí là hợp đồng thương mại bị vô hiệu toàn bộ. 

Vậy trong trường hợp Hợp đồng thương mại được xác lập bởi người không có thẩm quyền thì liệu rằng hậu quả của nó sẽ luôn luôn bị vô hiệu toàn bộ hay không?

Căn cứ quy định tại Điều 142 BLDS năm 2015 về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện:

“Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:

a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;

b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện”

Như vậy nếu rơi vào một trong 03 trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 142 BLDS năm 2015 thì Hợp đồng thương mại do người không có thẩm quyền đại diện xác lập vẫn có khả năng được công nhận hiệu lực. 

Cũng theo tinh thần của Nghị quyết 03/2004/NQ-HĐTP, nếu người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, người mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế đó (sau đây gọi tắt là người có thẩm quyền) chấp thuận. Được coi là người có thẩm quyền chấp thuận nếu người đó đã biết hợp đồng kinh tế đã được ký kết mà không phản đối.

“Được coi là người có thẩm quyền đã biết mà không phản đối khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Sau khi hợp đồng kinh tế đã được ký kết, có đấy đủ căn cứ chứng minh rằng người ký kết hợp đồng kinh tế đã báo cáo với người có thẩm quyền biết hợp đồng kinh tế đã được ký kết (việc báo cáo đó được thể hiện trong biên bản họp giao ban của Ban giám đốc, biên bản cuộc họp của Hội đồng thành viên hay Hội đồng quản trị, có nhiều người khai thống nhất về việc báo cáo là có thật…).

2. Người có thẩm quyền thông qua các chứng từ, tài liệu về kế toán, thống kê biết được hợp đồng kinh tế đó đã được ký kết và đang được thực hiện (đã ký trên hoá đơn, phiếu xuất kho, các khoản thu chi của việc thực hiện hợp đồng kinh tế hoặc trên sổ sách kế toán của pháp nhân…).

3. Người có thẩm quyền có những hành vi chứng minh có tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh theo thoả thuận của hợp đồng kinh tế (ký các văn bản xin gia hạn thời gian thanh toán, cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, ký các văn bản duyệt thu, chi hay quyết toán đối chiếu công nợ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng kinh tế…).

4. Người có thẩm quyền đã trực tiếp sử dụng các tài sản, lợi nhuận có được do việc ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế mà có (sử dụng xe ôtô để đi lại, để kinh doanh mà biết do việc ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế đó mà có; sử dụng trụ sở làm việc do việc ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế thuê tài sản…)”

Trong bài viết tiếp theo, chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề liên quan đến giá cả và phương thức thanh toán cũng như vấn đề về bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng. Mời quý độc giả theo dõi các nội dung trên trong các bài viết tiếp theo của chúng tôi.

>>> MỘT SỐ LƯU Ý KHI SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI (KỲ 2)

𝐋𝐈𝐍𝐂𝐎𝐍 𝐋𝐀𝐖 𝐅𝐈𝐑𝐌 – 𝐇𝐨̛̣𝐩 𝐭𝐚́𝐜 𝐯𝐮̛̃𝐧𝐠 𝐛𝐞̂̀𝐧

Bình Luận

Bình Luận

Chưa có bình luận nào.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *